Dự
báo với tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng là 7% - 10%/năm, thì
trong hai năm tới, có thể thị trường lại chứng kiến một cuộc khủng hoảng
thiếu xi măng
Theo Bộ Xây dựng, thị trường bất động sản ấm trở lại đã tác động tích cực đến . Bằng chứng là, cả nước giảm 96,96% so với tháng 2/2014. Tính chung 4 tháng đầu năm, sản lượng ước đạt 15,5 triệu tấn, khoảng 5,5 triệu tấn, tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm 2013.
Thực tế diễn biến trên thị trường xây dựng cho thấy, sang quý II/2014 là bắt đầu mùa xây dựng, nên thị trường tiêu thụ các loại đã có dấu hiệu khởi sắc trở lại. Riêng tháng 4/2014 đã tiêu thụ hơn 6 triệu tấn.
Vụ
Vật liệu Xây dựng (Bộ Xây dựng) cho biết, quý I năm nay, sản lượng sản
xuất xi măng toàn ngành ước đạt khoảng 11,58 triệu tấn, tăng khoảng 1,04
triệu tấn (tăng 9,8%). Nguồn cung cả nước đến năm 2015 sẽ còn 82,6 triệu tấn/năm, giảm gần 12 triệu tấn.
Với
các chỉ số tích cực của kinh tế vĩ mô từ đầu năm đến nay, dự báo với
tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng là 7% - 10%/năm, thì trong 2-3 năm
tới, có thể thị trường lại chứng kiến một cuộc khủng hoảng thiếu xi
măng, nếu không có những biện pháp chuẩn bị ngay từ bây giờ.
Bất cập giữa quy hoạch và triển khai thực hiện
Theo
Quyết định số 1488/QĐ-TTg ngày 29/08/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp xi măng Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020 và định hướng đến năm 2030, năm 2011, các
cung cấp 55 triệu tấn và đến 2015 là 75-75 triệu tấn, đến 2020 là 93-95
triệu tấn và đến 2030 là 113-115 triệu tấn. Trong giai đoạn 2012 - 2015
sẽ có 24
dự kiến đưa vào vận hành với tổng công suất thiết kế 24,76 triệu tấn xi
măng/năm. Tổng vốn đầu tư của 24 dự án này gần 50.000 tỉ đồng, tương
đương gần 2,4 tỉ đô la Mỹ, tính ra suất đầu tư trung bình 96,15 đô la
Mỹ/tấn xi măng. Dự báo mức tiêu thụ xi măng trong năm 2014 khoảng 65-67
triệu tấn, xuất khẩu 10 triệu tấn, tuỳ thuộc vào sức tiêu thụ trong
nước.
Nhà máy Xi măng Tây Ninh
Theo các chuyên gia và
trong ngành, qui hoạch này là phù hợp với nhu cầu phát triển, và tương
đối sát thực tế. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ triển khai thực hiện.
Do
suy thoái kinh tế, nhiều chủ dự án tuy đăng ký đầu tư và được đưa vào
qui hoạch nhưng lại không có khả năng triển khai vì thiếu vốn. Trên thực
tế, những dự án theo kiểu "xí phần" như vậy tương đối nhiều. Trên cơ sở
rà soát và đánh giá thực tế, tháng 2 vừa qua, Chính phủ đã mạnh tay
loại bỏ 9 dự án không khả thi ra khỏi qui hoạch.
Lý do Chính phủ
này là nhiều nhà đầu tư không có khả năng tài chính để triển khai dự
án. Ông Trần Văn Đương, Vụ trưởng Vụ Kinh tế ngành (Văn phòng Chính
phủ) lý giải, do vốn đầu tư 1 nhà máy xi măng rất nặng, nhất là việc mua
thiết bị. Trước đây, Chính phủ bảo lãnh phần vốn này nên doanh nghiệp
đầu tư không có gì phức tạp. Nhưng khi Chính phủ không bảo lãnh cho phần
đầu tư này nữa thì khó khăn xuất hiện với hầu hết các dự án xi măng.
Thực
tế thì còn nhiều dự án khác cũng vấp phải những khó khăn tương tự nhưng
chưa bị "rờ đến". Trong khi quy hoạch xi măng được đánh giá là khá sát
so với nhu cầu phát triển của nền kinh tế mà vẫn xảy ra tình trạng hàng
loạt dự án xi măng đã bị loại bỏ và còn nhiều dự án trong giai đoạn bị
xem xét loại bỏ, giãn, hoãn… thì khả năng xảy ra khủng hoảng thiếu xi
măng là nhãn tiền.
Theo kế hoạch, khoảng giữa và cuối năm 2014 sẽ
có 04 nhà máy xi măng mới được dưa vào hoạt động (Công Thanh, Đồng Lâm,
Thạch Mỹ, Trung Sơn) với tổng công suất là 7,5 triệu tấn. Như vậy vào
năm 2015 dự kiến Công suất các nhà máy xi măng sẽ là khoảng gần 85 triệu
tấn. Năm 2015 sẽ không có Dự án nào được đưa vào hoạt động. Nguồn cung
xi măng cả nước đến năm 2015 sẽ còn 82,6 triệu tấn/năm, giảm gần 12
triệu tấn so với con số 94,2 triệu tấn/năm trong qui hoạch 1488.
Nguyên nhân chậm triển khai
Nhiều dự án xi măng tuy được đưa vào qui hoạch đã lâu nhưng không triển
khai được, bị khai tử chính thức hoặc trên thực tế đã chết yểu là do
những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, là do xác định vị trí đầu tư không phù hợp. Nhiều dự án tuy
gần vùng nguyên liệu nhưng lại chỉ tính đến nhu cầu tiêu thụ nội vùng,
nằm xa các khu vực phát triển kinh tế năng động như miền Trung, miền
Nam, không thuận tiện về vận chuyển.
Trong điều kiện kinh tế suy giảm, nhu cầu nội vùng không cao hoặc không
như dự kiến, nếu vận chuyển sẽ đội chi phí lên cao, cho nên nếu đầu tư
sẽ không có lãi.
Đặc biệt, khi ngành giao thông siết chặt quản lý xe vận chuyển quá khổ,
quá tải trọng thì chi phí vận chuyển xi măng (mặt hàng nặng) sẽ tăng lên
rất cao, vận chuyển đến những thị trường xa nhà máy, lại bằng đường bộ
là không có lãi, thậm chí lỗ.
Cá biệt, có một số dự án công suất quá nhỏ, dưới 2500 tấn clinker/ngày,
thì đầu tư cũng không có hiệu quả nên chủ đầu tư cũng không có động tĩnh
gì.
Một nguyên nhân khác khá quan trọng là chủ đầu tư không có năng lực tài
chính nên không triển khai được, nhiều dự án cũng được đăng ký theo kiểu
xí phần.
Chính vì vây, theo quan điểm của ông Trần Văn Đương, việc rà soát, điều
chỉnh lại qui hoạch ngành xi măng cần xem xét cả hai khía cạnh: Vị trí
bố trí các dự án và năng lực tài chính thực sự của các chủ đầu tư.
Sau khi rà soát, cần tiếp tục mạnh tay loại bỏ các dự án không phù hợp,
không có năng lực tài chính, bổ sung các dự án mới khả thi cả về mặt địa
lý lẫn năng lực triển khai.
Để giải quyết được nguy cơ khủng hoảng thiếu xi măng, dự kiến sẽ xảy ra sau 2-3 năm nữa, Chính phủ cần hành động ngay từ bây giờ
Cảnh báo nguy cơ thiếu xi măng
Một
số nhà thầu xây dựng lớn cho rằng, đã đến lúc phải cảnh báo nguy cơ
thiếu xi măng để điều chỉnh tổng năng lực sản xuất chung của cả nước,
nếu không, bất lợi sẽ hoàn toàn rơi vào người tiêu dùng. Tất nhiên, lúc
đó, các doanh nghiệp sản xuất xi măng sẽ là người hưởng lợi.
Để
xây dựng và đưa vào vận hành một nhà máy xi măng trong điều kiện lý
tưởng thì cũng phải mất thời gian khoảng 3 năm. Do vậy, để giải quyết
được nguy cơ khủng hoảng thiếu xi măng, dự kiến sẽ xảy ra sau 2-3 năm
nữa, Chính phủ cần hành động ngay từ bây giờ.
Nguồn: /VOV